A. Hiệp định Sơ Bộ 6/3/1946. B. Chỉ thị toàn dân kháng chiến của Đảng. C. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh. D. Tác phẩm kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường Chinh. "Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi" - như một lời khẳng định, quyết tâm hết sức vì thời cuộc từ Bác, cũng là một cách trấn an tinh thần, gây dựng một lòng vững chãi từ tám người chiến sĩ tin tưởng đi theo phục vụ Bác mà không hề nao núng. Sau này Đánh nkhô giòn, chiến thắng nkhô cứng vẫn đẩy mạnh được ưu chũm quân sự áp hòn đảo của Pháp; giúp Pháp nhanh chóng đạt mục đích quay lại tái chiếm phần đất nước hình chữ S và Đông Dương. Đồng thời, khắc phục được điểm yếu lớn nhất của quân Pháp là hậu Tổng Bí thư Trường Chinh viết tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi. Quán triệt tinh thần Chỉ thị Toàn dân kháng chiến ngày 12-12-1946 của Đảng, cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, Tổng Bí thư Trường Chinh viết một loạt bài đăng trên báo Sự thật - Cơ quan ngôn Mục tiêu chiến lược của ta khi quyết định mở Chiến dịch Biên giới 1950 là nhằm; Câu 14. Kết quả lớn nhất mà quân dân ta đạt được sau chiến dịch Việt Bắc thu - đông năm 1947 là; Câu 15. Ý nghĩa lớn nhất trong thắng lợi Chiến dịch Biên giới thu - đông năm 1950 của dM9FjY. Cách đây tròn 72 năm, từ ngày 13 đến 16/3/1951 Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II đã diễn ra với mục tiêu “Quán triệt nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, triển khai các nhiệm vụ quân sự trong tình hình mới”. Có thể nói hội nghị đầu tiên được BCH Trung ương Đảng khóa II tổ chức đã góp phần không nhỏ, nâng cao ý thức kháng chiến lâu dài, gian khổ dựa vào sức mình là chính của cán bộ nhân dân ta, vạch ra những nhiệm vụ quan trọng, tiếp tục đẩy mạnh cuộc kháng chiến. Thứ hai, ngày 13/03/2023 - 2015 Những bài báo này đã được Nhà xuất bản Sự thật xuất bản thành sách với nhan đề Kháng chiến nhất định thắng lợi nhân dịp kỷ niệm lần thứ hai ngày Nam Bộ kháng chiến. Trong tác phẩm này, Tổng Bí thư Trường Chinh đã đề ra các luận chứng và phát triển toàn bộ đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ nhất định thắng lợi của Đảng ta. Tổng Bí thư vạch rõ kẻ thù chính của nhân dân ta là thực dân Pháp xâm lược, còn nhân dân Pháp là bạn của ta. Mục đích cuộc kháng chiến của nhân dân ta là độc lập và thống nhất thật sự. Để đạt mục đích đó, quân dân ta phải đạt được ba mục tiêu về quân sự tiêu diệt sinh lực địch trên đất ta; đè bẹp ý chí xâm lược của địch; lấy lại toàn bộ đất nước. Giành độc lập và thống nhất là mục đích của cuộc kháng chiến song cuộc kháng chiến chống Pháp là sự tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân bằng hình thức chiến tranh. Bởi vậy, nhiệm vụ chống phong kiến, thực hiện dân chủ và chính sách ruộng đất vẫn phải đi đôi với nhiệm vụ chống đế quốc. Nhưng vì giải phóng dân tộc là yêu cầu cấp bách nhất cho nên yêu cầu dân chủ không thể đặt ngang hàng với yêu cầu độc lập dân tộc. Chủ trương của Đảng là thực hiện từng bước chính sách ruộng đất với nội dung cụ thể là tịch thu ruộng đất của đế quốc và bọn Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia ruộng đất công, giảm tô và giảm tức tiến lên thực hiện cải cách ruộng đất. Tác phẩm trình bày rõ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam là cuộc chiến tranh tự vệ, chiến tranh giải phóng, chiến tranh chính nghĩa, là "một cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do độc lập, dân chủ và hoà bình". Tác phẩm luận chứng rõ cuộc kháng chiến của nhân dân ta là cuộc kháng chiến toàn dân và toàn diện, lâu dài và gian khổ. Về chính trị đường lối kháng chiến của Đảng là đoàn kết toàn dân chống Pháp xâm lược trên cơ sở củng cố liên minh công nông trong mặt trận dân tộc thống nhất. Trên trường quốc tế, phải cô lập kẻ thù, tranh thủ thêm nhiều bạn, làm cho nhân dân Pháp và nhân dân các thuộc địa Pháp tích cực ủng hộ ta chống lại thực dân Pháp và làm cho các lực lượng hoà bình và dân chủ trên thế giới đồng tình và ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Cuộc kháng chiến chống Pháp là cuộc chiến tranh nhân dân, do nhân dân tiến hành. Do đó, phải làm cho toàn dân tham gia và phục vụ kháng chiến. Muốn vậy, phải làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục chính trị, chăm lo cải thiện đời sống nhân dân, mở rộng quyền dân chủ cho nhân dân đặng "dốc lực lượng của 25 triệu đồng bào vào cuộc chiến đấu”. Để thực hiện nhiệm vụ kháng chiến về chính trị, một mặt phải củng cố chính quyền nhân dân, tăng cường bộ máy kháng chiến, thống nhất quân, chính, dân, quân sự phải phục tùng chính trị; mặt khác, kiên quyết trấn áp bọn phản động, triệt mầm chia rẽ và phá hoại trong nhân dân, đào thải các phần tử phản bội phá hoại, cơ hội, ươn hèn quan liêu, quân phiệt, bè phái khỏi bộ máy kháng chiến. Về quân sự phương châm chiến lược chung của cuộc kháng chiến là đánh lâu dài, vừa đánh vừa giữ gìn, bồi dưỡng và phát triển lực lượng ta, chuyển yếu thành mạnh; đồng thời làm cho địch bị tiêu diệt và tiêu hao, mỏi mắt, chán nản, từ mạnh chuyển thành yếu và bị bại. Chiến thuật của chiến tranh nhân dân là tích cực tiến công, giải quyết mau trong từng trận. Vì vậy, du kích chiến là lối đánh phổ biến nhất trong toàn bộ cuộc kháng chiến và trong cả nước, dần dần vận động chiến được áp dụng nhiều hơn cho tới lúc chiếm ưu thế. Cuộc kháng chiến sẽ trải qua ba giai đoạn phòng ngự, cầm cự, và tổng phản công và trong quá trình kháng chiến có thể "có những cuộc đàm phán mới xen vào". Để kháng chiến lâu dài, phải xây dựng lực lượng vũ trang hùng hậu gồm ba thứ quân quân chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, du kích. Để tiến hành chiến tranh nhân dân thì phải huy động toàn dân đánh giặc, phải có phương thức tác chiến thích hợp để động viên lực lượng toàn dân vào cuộc chiến đấu với địch ở bất cứ đâu. Với kinh tế một mặt, phá hoại kinh tế địch, không cho địch "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh"; mặt khác, xây dựng kinh tế ta theo hướng tự cung tự cấp về mọi mặt, vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Chính sách kinh tế ta là nâng cao sức sản xuất đáp ứng nhu cầu của thời chiến "ăn no, mặc ấm, đánh khoẻ”, bước đầu xây dựng kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác xã, coi trọng nông nghiệp và thủ công nghiệp, chú trọng công nghiệp quốc phòng, tăng thu, giảm chi, thực hành tiết kiệm, giảm nhẹ sự đóng góp của dân, củng cố tiền tệ, giữ vững giá hàng,... Về văn hoá đánh đổ văn hoá nô dịch, ngu dân và xâm lược của thực dân Pháp và xây dựng nền văn hoá mới theo ba nguyên tắc dân tộc, khoa học và đại chúng... Đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh chỉ rõ, cuộc kháng chiến của nhân dân ta nhất định thắng lợi nếu Đảng nắm vững chủ nghĩa Mác-Lênin và bám chắc lấy quần chúng nhân dân, phát huy khả năng của toàn dân. Đồng chí khẳng định "Dưới tay lái tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh, con tàu Việt Nam với đoàn thuỷ thủ dũng cảm của nó, nhất định sẽ tránh được mọi đá ghềnh, vượt cơn sóng cả để cập bến vinh quang”. - Xem thêm tài liệu tham khảo TẠI ĐÂY Nguồn Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 3, NXB Chính trị Quốc gia, 2008. Câu hỏi Cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán xâm lược lần thứ nhất của Dương Đình Nghệ thắng lợi có ý nghĩa gì? Cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán xâm lược lần thứ nhất thắng lợi có ý nghĩa gì quan trọng? A. Kết thúc hơn 1000 năm đô hộ của phong kiến phương Bắc B. Mở ra thời kì mới độc lập, tự chủ lâu dài C. Bảo vệ nền tự chủ của dân tộc từ sau cuộc nổi dậy của Khúc Thừa Dụ D. Đem lại nền tự chủ cho dân tộc sau một thời gian dài bị đô hộĐọc tiếp Xem chi tiết Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Nam Hán lần thứ nhất, Dương Đình Nghệ tự xưng là gì? A. An Nam quốc vương B. Hoàng đế C. Tiết độ sứ D. Thái úy Xem chi tiết Câu 1 Những việc làm của Khúc Hạo để xây dựng đất nước ?Câu 2 Diễn biến cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nam Hán của Dương Đình Nghệ? Kết quả? Ý nghĩa?Câu 3 Ngô Quyền chuẩn bị kháng chiến chống quân xâm lược Nam Hán như thế nào?Câu 4 Kế hoạch đánh giặc của Ngô Quyền chủ động và độc đáo ở chỗ nào?Câu 5 Diễn biến, kết quả trận quyết chiến trên sông Bạch Đằng năm 938?Câu 6 Đánh giá vai trò của Ngô Quyền trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nam Hán lần thứ 2?giúp tui với mai tui thi...Đọc tiếp Xem chi tiết Sau thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán lần thứ nhất, Ngô Quyền được phong giữ chức vụ gì? A. Thái úy Giao Châu B. Thứ sử Hoan Châu C. Thứ sử Ái Châu D. Thứ sử Giao Châu Xem chi tiết Dựa vào lược đồSGK-trang 72, em hãy trình bày diễn biến cuộc kháng chiến cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán của Dương Đình Nghệ. Xem chi tiết Câu 10. Nhà nước Âu Lạc ra đời trên cơ sở thắng lợi từ cuộc kháng chiếnA. chống quân Hán xâm lược của nhân dân huyện Tượng chống quân Tần xâm lược của người Âu Việt và Lạc Việt. C. chống quân Nam Hán xâm lược của người chống quân Đường xâm lược của người 11. Nội dung nào sau đây không phản ánh đúng phong tục, tập quán của người Việt cổ thời Văn Lang – Âu Lạc?A. Xăm mình. B. Làm bánh chưng, bán Nhuộm răng đen. ...Đọc tiếp Xem chi tiết Nguyên nhân thắng lợi - Ý nghĩa việc lịch sử của cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán năm 938 Xem chi tiết Dựa và lược đồ SGK, trang 72, em hãy trình bày diễn biến cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán của Dương Đình Nghệ. Xem chi tiết Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Hán 42- 43 không mang ý nghĩa nào sau đây? A. Củng cố vững mạnh chính quyền tự chủ của nhân dân ta. B. Khẳng định vai trò của người phụ nữa trong lịch sử dân tộc ta. C. Thể hiện tinh thần đoàn kết, ý chí chống giặc của nhân dân ta. D. Để lại nhiều bại học kinh nghiệm quý báuĐọc tiếp Xem chi tiết Ngày 11/6 vừa qua, ông Tạ Quang Chiến, người cận vệ cuối cùng được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt tên trong nhóm 8 cận vệ “Trường/ Kỳ /Kháng /Chiến /Nhất/ Định /Thắng/ Lợi” qua đời hưởng thọ 98 tuổi, khép lại một thế hệ cận vệ gồm 8 người từng mang trong mình nhiệm vụ bảo vệ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Giai thoại về 8 con người được “khai sinh” lại đến nay vẫn được nhắc lại nhiều, phần vì sự đặc biệt từ ý nghĩa của 8 cái tên ghép lại, phần vì sự cao cả và trách nhiệm lớn lao của họ khi được tin tưởng giao nhiệm vụ ở bên cạnh Bác Hồ. Hồi ức từ những tháng ngày đầy thăng trầm của đất nước Vào những ngày gần cuối cuộc đời, ông Nguyễn Hữu Văn, người được Bác Hồ đặt tên là Chiến vẫn còn nhớ rất sâu đậm về ký ức một thời đất nước gian nguy. Thời khắc được là một trong số những người đi theo Bác lên Chiến khu Việt Bắc, ông cảm thấy đã mang trong mình trách nhiệm to lớn, dẫu có khó khăn gian khổ, được làm việc cùng Bác Hồ là một trong những điều may mắn và hạnh phúc. Bức tranh vẽ ông Tạ Quang Chiến phụ việc cho Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Tuyên Quang năm 1949. Vào tháng 12/1946, sau khi ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Bác Hồ cùng Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành… đã phải rời Hà Nội để lên Chiến khu Việt Bắc. Những ngày đầu kháng chiến, theo chỉ thị của Trung ương, Tổ Cận vệ bảo vệ Chủ tịch Hồ Chí Minh hành quân trở lại Chiến khu Việt Bắc. Đi với Bác là bộ phận gọn nhẹ có 8 cận vệ gồm các đồng chí Võ Chương, Vũ Long Chuẩn, Nguyễn Văn Lý, Văn Lâm, Ngọc Hà, Nguyễn Quang Chí, Trần Đình và Nguyễn Hữu Văn. Nói là cận vệ của Bác nhưng thực tế Tổ Cận vệ làm tất cả các công việc Bác giao như cảnh vệ, công tác văn phòng, liên lạc, hậu cần… Phương châm đặt ra là một người thạo nhiều việc, song bảo vệ Bác vẫn là nhiệm vụ quan trọng nhất. Đến khoảng thời gian đầu tháng 3 năm 1947, Bác Hồ và mọi người đến được xã Cổ Tiểt, Tam Nông, Phú Thọ, tạm thời dừng chân tại đây. Sáng ngày 06/3/1947, lúc ấy, Bác gọi tám người anh em đi theo Bác lại bàn bạc. Bác rất hiểu tình hình và hoàn cảnh, dẫu khó khăn nhưng Bác vẫn mong mỏi mọi người phải hết sức cố gắng. Sau khi căn dặn công chuyện, phân công việc làm và nhắc nhở mọi người phải giữ thông tin tuyệt mật, lúc này Bác mới đưa ra ý tưởng đặt tên cho tám anh em. Bác có nói, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta mới bắt đầu và còn lâu dài, gian khổ, nhưng nhất định sẽ thắng lợi. Từ hôm nay trở đi, để tỏ lòng quyết tâm kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và cũng là để giữ bí mật, Bác đặt tên cho các chú là Trường - Kỳ - Kháng - Chiến - Nhất - Định - Thắng - Lợi. Bác chỉ vào từng người đang quây quần bên Bác, đặt tên cho từng đồng chí theo thứ tự vòng tròn lúc đó. Bảo vệ Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đường đi công tác từ Đèo Khế, Thái Nguyên sang Tuyên Quang năm 1947 đồng chí Hoàng Hữu Kháng - 1 trong 8 cận vệ ngồi thứ 4 từ trái sang. “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” - như một lời khẳng định, quyết tâm hết sức vì thời cuộc từ Bác, cũng là một cách trấn an tinh thần, gây dựng một lòng vững chãi từ tám người chiến sĩ tin tưởng đi theo phục vụ Bác mà không hề nao núng. Sau này, bất kỳ vị trí của người nào thay đổi người tiếp theo vẫn tiếp tục kế thừa cái tên mà Bác đã đặt cho. Mọi người dường như được khai sinh lần nữa, và lần này mang trong mình một lòng tự hào vì được giao phó nhiệm vụ góp sức cùng người cha của dân tốc, đồng hành trên quãng đường tiến tới giải phóng non sông. Những người đi bên Bác đến thắng lợi dân tộc Mỗi khi có một trong tám người chuyển công tác, đều có người khác thay, vì vậy có 3 người kế tiếp nhau tên là Trường, 2 người tên là Nhất và 2 người tên là Thắng. Ba người kế tiếp nhau tên Trường Người đầu tiên Võ Trường tên thật là Võ Chương, gốc Huế. Trước Cách mạng tháng Tám dạy học tại Thanh Hóa, sau chuyển về Hà Nội vừa dạy học vừa hoạt động cách mạng. Sau đó, được tuyển vào Đội Thanh niên cứu quốc Hoàng Diệu. Tháng được đồng chí Nguyễn Lương Bằng bổ sung vào đội cận vệ của Bác. Khi lên tới Chiến khu Việt Bắc, ông chuyển sang làm công tác khác và lâm bệnh mất năm 1949. Người thứ hai mang tên Trường là ông Hoàng Văn Phức, tức Văn Lâm. Là người dân tộc Tày, quê ở Cao Bằng. Trước năm 1945, là tự vệ của căn cứ địa cách mạng Cao Bằng, từ tháng được giao nhiệm vụ bảo vệ Bác với tên Nhất. Sau khi ông Võ Chương nhận nhiệm vụ khác, ông Hoàng Văn Phức thay thế ông Trường và được gọi là Hồ Văn Trường. Về sau ông được giao nhiệm vụ coi giữ kho tài sản của Ngân hàng Nhà nước và từng là cán bộ Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh, ông mất năm 1994. Người thứ ba mang tên Trường tên thật là Phạm Văn Nền, quê ở Hà Nội. Về sau làm lái xe cho Bác cho đến khi Bác mất. Ông Nền mất năm 1996. Người mang tên Kỳ Vũ Kỳ, tên thật là Vũ Long Chuẩn, tức Nguyễn Cần, quê ở Hà Đông, tham gia Cách mạng từ năm 1941, bị địch bắt giam ở nhà tù Hoả Lò, Hà Nội; năm 1945 vượt ngục, tham gia Tổng khởi nghĩa Tháng 8/1945 tại Hà Nội. Ông làm Thư ký giúp việc Bác Hồ từ 8/1945 đến năm 1949 và từ năm 1957 đến khi Bác mất. Trước khi nghỉ hưu, ông là Đại biểu Quốc hội khóa VIII, Giám đốc Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh. Ông mất năm 2005. Người mang tên Kháng Hoàng Hữu Kháng, quê ở Thái Bình, tên thật là Nguyễn Văn Cao, tức Lý. Ông hoạt động Cách mạng trước năm 1945, từng bị địch bắt giam tại nhà tù Sơn La từ năm 1941, sau đó chuyển về nhà tù Chợ Chu, Thái Nguyên. Ông vượt ngục và tham gia xây dựng căn cứ địa ở Chiến khu Việt Bắc, làm Hiệu phó Trường quân chính kháng Nhật. Sau này, ông là Thiếu tướng, Cục trưởng Cục Cảnh vệ, Bộ Công an. Ông mất năm 1994. Người thứ tư tên Chiến Tạ Quang Chiến, tên thật là Nguyễn Hữu Văn, tham gia cách mạng năm 1943, sau Cách mạng Tháng 8/1945 được phục vụ Bác Hồ, đến năm 1957 chuyển công tác khác. Ông từng là Bí thư Trung ương Đoàn, Tổng cục trưởng Tổng cục Thể dục Thể thao, Đại biểu Quốc hội, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Y tế Xã hội của Quốc hội khóa VII, đã qua đời vì tuổi già tháng 6/2022, là người cận vệ cuối cùng của Bác ra đi. Hai người mang tên Nhất gồm người đầu tiên Hồ Văn Nhất dân tộc Tày, quê ở Cao Bằng, tên thật là Hoàng Văn Phúc, bí danh Văn Lâm, bảo vệ Bác từ tháng 5/1945 khi Bác về Tân Trào, Tuyên Quang. Sau khi ông Võ Trường chuyển sang làm công tác khác, ông Hồ Văn Nhất thay thế ông Trường và được gọi là Hồ Văn Trường. Như vậy ông vừa có tên là Nhất vừa có tên là Trường. Sau này ông là cán bộ Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh, mất năm 1994. Người thứ hai mang tên Nhất thay ông Hồ Văn Nhất là ông Long Văn Nhất, bí danh là Tiên Phong, nguyên là cận vệ của đồng chí Võ Nguyên Giáp được điều sang phục vụ Bác Hồ. Ông mất năm 1967. Người thứ sáu tên Định Võ Viết Định, tên thật là Chu Phương Vương, tức Ngọc Hà, là chiến sĩ Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, quê ở Cao Bằng, bảo vệ Bác từ tháng 8/1945. Tới tháng 5/1952 chuyển công tác. Sau này, có thời gian ông là Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ nhiệm Công ty Xây lắp cơ khí thuộc Khu liên hợp gang thép Thái Nguyên. Ông đã mất. Hai người được mang tên Thắng. Người đầu tiên là ông Nguyễn Quang Chí, tức Nguyễn Văn Huy. Bảy tháng sau ngày được Bác Hồ đặt tên, ông chuyển công tác khác. Người thứ hai mang tên Thắng Triệu Hồng Thắng tên thật là Triệu Văn Cắt, tức Triệu Tiến Thọ, dân tộc Dao, quê ở Thái Nguyên. Sau năm 1954, ông Triệu Hồng Thắng là Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính Khu tự trị Việt Bắc. Ông mất năm 1975. Người thứ tám được Bác Hồ đặt tên Lợi Trần Lợi, tên thật là Trần Đình, dân tộc Nùng, quê ở Cao Bằng, nguyên là chiến sĩ Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, bảo vệ Bác từ năm 1945 đến năm 1950 thì chuyển về địa phương. Ông đã mất trong kháng chiến chống Pháp. Họ đều là những người đã đi vào lịch sử của dân tộc, ai cũng đã đặt một vết son đỏ vào bản hùng ca chiến thắng của dân tộc. Được Bác tín nhiệm và đặt tên, mỗi người đều rất tự hào vì chính họ như là minh chứng của một khẩu hiệu sống, hiển hiện và nhiệt huyết. Tám người “cận vệ” được Bác Hồ khai sinh nay đều đã rời cõi tạm, nhưng giai thoại về những anh hùng ấy hẳn vẫn còn mãi, vẫn được khắc ghi theo dòng lịch sử non sông./. Theo Những bài báo này đã được Nhà xuất bản Sự thật xuất bản thành sách với nhan đề Kháng chiến nhất định thắng lợi nhân dịp kỷ niệm lần thứ hai ngày Nam Bộ kháng chiến. Trong tác phẩm này, Tổng Bí thư Trường Chinh đã đề ra các luận chứng và phát triển toàn bộ đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ nhất định thắng lợi của Đảng ta. Tổng Bí thư vạch rõ kẻ thù chính của nhân dân ta là thực dân Pháp xâm lược, còn nhân dân Pháp là bạn của ta. Mục đích cuộc kháng chiến của nhân dân ta là độc lập và thống nhất thật sự. Để đạt mục đích đó, quân dân ta phải đạt được ba mục tiêu về quân sự tiêu diệt sinh lực địch trên đất ta; đè bẹp ý chí xâm lược của địch; lấy lại toàn bộ đất nước. Giành độc lập và thống nhất là mục đích của cuộc kháng chiến song cuộc kháng chiến chống Pháp là sự tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân bằng hình thức chiến tranh. Bởi vậy, nhiệm vụ chống phong kiến, thực hiện dân chủ và chính sách ruộng đất vẫn phải đi đôi với nhiệm vụ chống đế quốc. Nhưng vì giải phóng dân tộc là yêu cầu cấp bách nhất cho nên yêu cầu dân chủ không thể đặt ngang hàng với yêu cầu độc lập dân tộc. Chủ trương của Đảng là thực hiện từng bước chính sách ruộng đất với nội dung cụ thể là tịch thu ruộng đất của đế quốc và bọn Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia ruộng đất công, giảm tô và giảm tức tiến lên thực hiện cải cách ruộng đất. Tác phẩm trình bày rõ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam là cuộc chiến tranh tự vệ, chiến tranh giải phóng, chiến tranh chính nghĩa, là "một cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do độc lập, dân chủ và hoà bình". Tác phẩm luận chứng rõ cuộc kháng chiến của nhân dân ta là cuộc kháng chiến toàn dân và toàn diện, lâu dài và gian khổ. Về chính trị đường lối kháng chiến của Đảng là đoàn kết toàn dân chống Pháp xâm lược trên cơ sở củng cố liên minh công nông trong mặt trận dân tộc thống nhất. Trên trường quốc tế, phải cô lập kẻ thù, tranh thủ thêm nhiều bạn, làm cho nhân dân Pháp và nhân dân các thuộc địa Pháp tích cực ủng hộ ta chống lại thực dân Pháp và làm cho các lực lượng hoà bình và dân chủ trên thế giới đồng tình và ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Cuộc kháng chiến chống Pháp là cuộc chiến tranh nhân dân, do nhân dân tiến hành. Do đó, phải làm cho toàn dân tham gia và phục vụ kháng chiến. Muốn vậy, phải làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục chính trị, chăm lo cải thiện đời sống nhân dân, mở rộng quyền dân chủ cho nhân dân đặng "dốc lực lượng của 25 triệu đồng bào vào cuộc chiến đấu”. Để thực hiện nhiệm vụ kháng chiến về chính trị, một mặt phải củng cố chính quyền nhân dân, tăng cường bộ máy kháng chiến, thống nhất quân, chính, dân, quân sự phải phục tùng chính trị; mặt khác, kiên quyết trấn áp bọn phản động, triệt mầm chia rẽ và phá hoại trong nhân dân, đào thải các phần tử phản bội phá hoại, cơ hội, ươn hèn quan liêu, quân phiệt, bè phái khỏi bộ máy kháng chiến. Về quân sự phương châm chiến lược chung của cuộc kháng chiến là đánh lâu dài, vừa đánh vừa giữ gìn, bồi dưỡng và phát triển lực lượng ta, chuyển yếu thành mạnh; đồng thời làm cho địch bị tiêu diệt và tiêu hao, mỏi mắt, chán nản, từ mạnh chuyển thành yếu và bị bại. Chiến thuật của chiến tranh nhân dân là tích cực tiến công, giải quyết mau trong từng trận. Vì vậy, du kích chiến là lối đánh phổ biến nhất trong toàn bộ cuộc kháng chiến và trong cả nước, dần dần vận động chiến được áp dụng nhiều hơn cho tới lúc chiếm ưu thế. Cuộc kháng chiến sẽ trải qua ba giai đoạn phòng ngự, cầm cự, và tổng phản công và trong quá trình kháng chiến có thể "có những cuộc đàm phán mới xen vào". Để kháng chiến lâu dài, phải xây dựng lực lượng vũ trang hùng hậu gồm ba thứ quân quân chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, du kích. Để tiến hành chiến tranh nhân dân thì phải huy động toàn dân đánh giặc, phải có phương thức tác chiến thích hợp để động viên lực lượng toàn dân vào cuộc chiến đấu với địch ở bất cứ đâu. Với kinh tế một mặt, phá hoại kinh tế địch, không cho địch "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh"; mặt khác, xây dựng kinh tế ta theo hướng tự cung tự cấp về mọi mặt, vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Chính sách kinh tế ta là nâng cao sức sản xuất đáp ứng nhu cầu của thời chiến "ăn no, mặc ấm, đánh khoẻ”, bước đầu xây dựng kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác xã, coi trọng nông nghiệp và thủ công nghiệp, chú trọng công nghiệp quốc phòng, tăng thu, giảm chi, thực hành tiết kiệm, giảm nhẹ sự đóng góp của dân, củng cố tiền tệ, giữ vững giá hàng,... Về văn hoá đánh đổ văn hoá nô dịch, ngu dân và xâm lược của thực dân Pháp và xây dựng nền văn hoá mới theo ba nguyên tắc dân tộc, khoa học và đại chúng... Đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh chỉ rõ, cuộc kháng chiến của nhân dân ta nhất định thắng lợi nếu Đảng nắm vững chủ nghĩa Mác-Lênin và bám chắc lấy quần chúng nhân dân, phát huy khả năng của toàn dân. Đồng chí khẳng định "Dưới tay lái tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh, con tàu Việt Nam với đoàn thuỷ thủ dũng cảm của nó, nhất định sẽ tránh được mọi đá ghềnh, vượt cơn sóng cả để cập bến vinh quang”. - Xem thêm tài liệu tham khảo TẠI ĐÂYNguồn Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 3, NXB Chính trị Quốc gia, 2008.

kháng chiến nhất định thắng lợi